ÁN LỆ 06/2016 - TRANH CHẤP THỪA KẾ
Trong
vụ án tranh chấp thừa kế có người thuộc diện thừa kế ở nước ngoài, nếu Tòa án
đã thực hiện ủy thác tư pháp, thu thập chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật
nhưng vẫn không xác định được địa chỉ của những người đó thì Tòa án vẫn giải
quyết yêu cầu của nguyên đơn; nếu xác định được di sản thừa kế, diện hàng thừa
kế và người để lại di sản thừa kế không có di chúc thì giải quyết việc chia thừa
kế cho nguyên đơn theo quy định của pháp luật; phần tài sản thừa kế của những
người vắng mặt, không xác định được địa chỉ sẽ tạm giao cho những người sống
trong nước quản lý để sau này giao lại cho những thừa kế vắng mặt.
(Tải
về)
Án
lệ số 06/2016/AL
Được
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016
và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn
án lệ:
Quyết
định giám đốc thẩm số 100/2013/GĐT-DS ngày 12-8-2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp thừa kế” tại Hà Nội, giữa nguyên
đơn là ông Vũ Đình Hưng với bị đơn là bà Vũ Thị Tiến (tức Hiền), bà Vũ Thị
Hậu; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm các ông, bà Vũ Đình Đường, Vũ
Thị Cẩm, Vũ Thị Thảo, Nguyễn Thị Kim Oanh, Hà Thùy Linh.
Khái
quát nội dung của án lệ:
Trong
vụ án tranh chấp thừa kế có người thuộc diện thừa kế ở nước ngoài, nếu Tòa án
đã thực hiện ủy thác tư pháp, thu thập chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật
nhưng vẫn không xác định được địa chỉ của những người đó thì Tòa án vẫn giải
quyết yêu cầu của nguyên đơn; nếu xác định được di sản thừa kế, diện hàng thừa
kế và người để lại di sản thừa kế không có di chúc thì giải quyết việc chia thừa
kế cho nguyên đơn theo quy định của pháp luật; phần tài sản thừa kế của
những người vắng mặt, không xác định được địa chỉ sẽ tạm giao cho những
người sống trong nước quản lý để sau này giao lại cho những thừa kế vắng mặt.
Quy
định của pháp luật liên quan đến án lệ:
-
Điều 93; điểm đ khoản 1 Điều 168 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004;
-
Điều 676 và 685 của Bộ luật dân sự năm 2005.
Từ
khóa của án lệ:
“Tranh
chấp di sản thừa kế”; “Người thừa kế ở nước ngoài chưa rõ địa chỉ”; “Ủy thác tư
pháp”; “Phân chia di sản”; “Quản lý di sản”.
NỘI
DUNG VỤ ÁN
Theo
đơn khởi kiện tháng 7 năm 1993, nguyên đơn là ông Vũ Đình Hưng trình bày:
Cha
mẹ ông là cụ Vũ Đình Quảng và cụ Nguyễn Thị Thênh sinh được 6 người con là ông
Vũ Đình Đường, bà Vũ Thị Cẩm, bà Vũ Thị Thảo, ông Vũ Đình Hưng, bà Vũ
Thị Tiến (tức Hiền) và bà Vũ Thị Hậu. Cụ Quảng và cụ Thênh tạo lập được
căn nhà số 66 phố Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, diện tích 123m2.
Năm 1979, cụ Quảng chết không để lại di chúc, căn nhà do cụ Thênh và 3 con
là ông Hưng, bà Hậu, bà Tiến ở; ông Đường, bà Thảo và bà Cẩm đều xuất
cảnh đi nước ngoài. Tại biên bản họp gia đình ngày 28-10-1982, cụ Thênh và
ông, bà Tiến, bà Hậu thỏa thuận tạm thời phân chia nhà thành 3 phần cho ông, bà
Hậu và bà Tiến sử dụng. Năm 1987, cụ Thênh chết. Sau đó năm 1989, bà Tiến đã
lén lút bán phần nhà được tạm chia cho bà Nguyễn Thị Kim Oanh. Khi ông đã có
đơn khởi kiện chia thừa kế ra Tòa án rồi nhưng ngày 31-10-1993, bà Hậu đã bán
tiếp phần nhà bà Hậu được tạm chia cho bà Hà Thùy Linh. Việc mua bán nhà này là
sai. Ông xác định được 3 anh chị em đang ở nước ngoài (là ông Đường, bà Cẩm
và bà Thảo) có văn bản cho ông hưởng phần thừa kế nên yêu cầu chia thừa kế di sản
của cha mẹ ông theo pháp luật.
Ông
Hưng xuất trình bản photocopy các giấy ủy quyền lập ngày 03-3-1992 của ông Vũ
Đình Đường, ngày 1-5-1993 của bà Vũ Thị Cẩm, ngày 28-10-1991 của bà Vũ Thị
Thảo đều có nội dung ủy quyền cho ông Hưng quản lý trông nom phần tài sản của
mình trong nhà 66 Đồng Xuân là 1/6 nhà. Sau khi nộp đơn khởi kiện, ông Hưng xuất
trình thêm các “Giấy chuyển hẳn cho quyền thừa kế” đề ngày 25-4-1995 của ông Vũ
Đình Đường; “Giấy chuyển hẳn cho quyền thừa kế” đề ngày 10-5-1995 của bà Vũ Thị Cẩm;
“Giấy cho hẳn quyền thừa kế” của bà Vũ Thị Thảo; các văn bản này đều ghi là lập
tại nước ngoài, đều có nội dung xác nhận: cha mẹ để lại ngôi nhà 66 Đồng Xuân
cho 6 người con nhưng bà Tiến (Hiền) và bà Hậu đã bán phần nhà của cha mẹ để lại
là vi phạm lời dặn của mẹ (không được bán, cho người ngoài vào ở)... Ông Đường
và bà Thảo, bà Cẩm làm giấy này cho hẳn ông Hưng 1/6 ngôi nhà 66 Đồng Xuân
phần mỗi người được hưởng thừa kế để ông Hưng duy trì thờ cúng tổ tiên và cũng
để ba gia đình con cháu người ở nước ngoài có nơi đi lại thờ cúng tổ tiên và đề
nghị cho ông Hưng được hưởng thừa kế bằng hiện vật (các tài liệu ông Hưng xuất
trình đều chỉ là bản photocopy).
Bị
đơn trình bày:
Bà
Vũ Thị Tiến trình bày: Xác nhận về quan hệ huyết thống và nguồn gốc căn nhà 66
Đồng Xuân như ông Hưng trình bày. Năm 1989, bà đã bán phần được chia cho bà
Oanh, đã giao nhà và đã làm xong thủ tục mua bán nhà tại Sở Nhà đất Hà Nội cho
người mua. Sau khi đến ở, bà Oanh còn có thỏa thuận với ông Hưng, bà Hậu hoán đổi
một số công trình trong nhà để các bên sử dụng thuận tiện hơn. Sau đó do
ông Hưng khiếu nại nên Sở Nhà đất đã thu hồi hồ sơ mua bán nhà giữa bà và bà
Oanh. Bà Hậu cũng đã bán phần nhà được chia cho người khác. Bà xác định cụ
Thênh đã cho tiền 3 người đi nước ngoài nên họ không có yêu cầu gì về nhà này.
Bà đã bán phần nhà của mình cho bà Oanh, nay bà không có trách nhiệm gì về phần
nhà đã bán.
Bà
Vũ Thị Hậu trình bày: Xác nhận về quan hệ huyết thống và nguồn gốc căn nhà 66 Đồng
Xuân như ông Hưng trình bày và việc phân chia nhà cũng như việc bà Tiến đã bán
một phần như bà Tiến trình bày. Bà xác định khi bán có thông báo cho anh chị ở
nước ngoài và họ đều đồng ý. Bà đề nghị chia cho bà vào phần nhà bà đã bán cho
vợ chồng bà Linh, ông Khôi.
Người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:
Vợ
chồng bà Hà Thùy Linh và ông Hoàng Mạnh Khôi trình bày: Khi ông bà mua nhà, bà
Hậu có cho xem biên bản họp gia đình, nên ông bà mới nhất trí mua. Ông bà đã trả
đủ tiền, dọn đến ở từ đó đến nay, yêu cầu được hợp pháp hóa phần nhà đã mua của
bà Hậu.
Bà
Nguyễn Thị Kim Oanh trình bày: Ngày 18-10-1992, bà có mua nhà của bà Tiến được
chia, giá 30.000.000 đồng. Việc mua bán đã được chính quyền cho phép. Sau khi
mua nhà, bà đã về ở, có thỏa thuận hoán đổi một số vị trí sử dụng nhà cho ông
Hưng, đề nghị công nhận hợp đồng mua bán nhà giữa bà Tiến với bà.
Tại
Bản án dân sự sơ thẩm số 20/DSST ngày 23-5-1995, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
đã chấp nhận yêu cầu xin chia thừa kế của ông Hưng, ông Đường, bà Cẩm, bà
Thảo do ông Hưng đại diện xin chia di sản thừa kế của cụ Quảng và cụ
Thênh. Chấp nhận một phần bản di chúc của cụ Thênh lập ngày 28-10-1982, xác định
di sản thừa kế trị giá 1.228.151.520 đồng, chia thừa kế bằng hiện vật nhà, đất
cho 3 người là ông Hưng, bà Hậu và bà Tiến. Việc mua bán giữa bà Tiến, bà Hậu với
bà Oanh, bà Linh được thực hiện theo quy định của nhà nước.
Bà
Tiến kháng cáo đề nghị xem xét lại cách tính diện tích di sản thừa kế. Ông
Hưng kháng cáo cho rằng Tòa án xử không khách quan.
Tại
Bản án dân sự phúc thẩm số 115 ngày 10-10-1995, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại Hà Nội quyết định: Hủy Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết sơ thẩm lại.
Tại
Bản án dân sự sơ thẩm số 50/DSST ngày 11-9-1996, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
quyết định chấp nhận yêu cầu xin chia thừa kế của ông Hưng, ông Đường,
bà Cẩm, bà Thảo do ông Hưng làm đại diện xin chia di sản thừa kế của cụ Quảng
và cụ Thênh; ghi nhận sự tự nguyện của ông Đường, bà Cẩm, bà Thảo ở nước
ngoài nhường kỷ phần thừa kế cho ông Hưng và chia hiện vật cho ông Hưng, bà Hậu,
bà Tiến (mỗi người 1/3 cửa hàng và phần nhà phía sau), bà Hậu, bà Tiến phải
thanh toán chênh lệch cho ông Hưng (bà Hậu 156.824.381 đồng; bà Tiến
140.774.106 đồng). Việc mua bán nhà giữa bà Tiến, bà Hậu với bà Oanh, bà Linh
là trái pháp luật.
Ông
Hưng kháng cáo.
Tại
Quyết định số 82/TĐC ngày 15-7-1997, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại
Hà Nội đã tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Sau
khi có Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27-7-2006 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm
1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao tại Hà Nội đã tiếp tục giải quyết vụ án.
Tại
Bản án dân sự phúc thẩm số 142/2007/DSPT ngày 03-7-2007, Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Hà Nội đã hủy Bản án sơ thẩm và giao Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội giải quyết sơ thẩm lại vụ án với nhận định: Đơn khởi kiện chỉ
có ông Hưng viết và ký, các giấy ủy quyền của ông Đường, bà Thảo, bà Cẩm đều
không thể hiện là ủy quyền khởi kiện chia thừa kế (trừ giấy của bà Thảo), nay
các đương sự thừa nhận ông Đường, bà Thảo đều đã chết, nên cần xác minh việc
này và đưa người thừa kế của họ tham gia tố tụng; định giá lại nhà đất cho phù
hợp.
Sau
khi thụ lý lại vụ án, đương sự trình bày: ông Đường và bà Thảo đã chết vào
khoảng năm 2002. Tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu ông Hưng cung cấp giấy chứng tử
của ông Đường và bà Thảo, bổ sung đơn khởi kiện theo đúng quy định tại khoản
2 Điều 164 Bộ luật tố tụng dân sự (họ tên, địa chỉ, quốc tịch của các con ông
Đường, bà Thảo; tên, địa chỉ của người đang ở tại phần nhà đất tranh chấp)
nhưng ông Hưng không cung cấp được.
Tại
Quyết định số 04/2008/QĐST-DS ngày 17-01-2008, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
đã đình chỉ việc giải quyết vụ án, trả tạm ứng án phí cho ông Hưng.
Ngày
29-01-2008, ông Hưng kháng cáo cho rằng Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ
án là không đúng.
Tại
Quyết định số 168/2008/DS-QĐPT ngày 04-9-2008, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại Hà Nội đã chấp nhận kháng cáo của ông Hưng, hủy quyết định sơ thẩm với
lý do: cấp sơ thẩm áp dụng khoản 2 Điều 192 đình chỉ việc giải quyết vụ án
là không đúng, làm mất quyền khởi kiện của đương sự.
Sau
khi thụ lý lại vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã yêu cầu ông Hưng cung
cấp các tài liệu là tên, tuổi, địa chỉ người thừa kế của ông Đường, bà Thảo;
văn bản ủy quyền hoặc từ chối nhận thừa kế của những người này; tên và địa chỉ
những người đang ở tại nhà đất của bà Oanh. Ông Hưng không cung cấp được các
tài liệu trên.
Tại
Quyết định số 54/DS-ST ngày 30-9-2009, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết
định: Đình chỉ giải quyết vụ án chia thừa kế, trả lại đơn kiện và tài liệu chứng
cứ kèm theo cho ông Hưng.
Ông
Hưng kháng cáo.
Tại
Quyết định số 44/2010/QĐ-PT ngày 09-3-2010, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại Hà Nội quyết định: Giữ nguyên quyết định sơ thẩm.
Ông
Hưng có đơn đề nghị giám đốc thẩm.
Tại
Quyết định số 35/2013/KN-DS ngày 22-01-2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
đã kháng nghị Quyết định số 44/2010/QĐ-PT ngày 09-3-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Quyết định dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm số 54/2009/DS-ST ngày 30/9/2009 của
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại
phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất
trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định:
Căn
nhà số 66 phố Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội do cụ Vũ Đình Quảng
(chết năm 1979) và Nguyễn Thị Thênh (chết năm 1987) tạo lập. Các cụ sinh
được 6 người con thì 3 người là ông Vũ Đình Đường, bà Vũ Thị Cẩm, bà Vũ Thị
Thảo định cư ở nước ngoài từ năm 1979, còn 3 người ở trong nước là ông Vũ
Đình Hưng, bà Vũ Thị Tiến (Hiền), bà Vũ Thị Hậu. Sau khi cụ Quảng chết chỉ còn
cụ Thênh, ông Hưng, bà Tiến, bà Hậu quản lý căn nhà này. Sau khi cụ Thênh chết,
ông Hưng, bà Tiến và bà Hậu đã tự phân chia căn nhà thành 3 phần để ở. Ngày
18-10-1992, bà Tiến bán phần nhà đang sử dụng cho bà Nguyễn Thị Kim Oanh và
ngày 31-10-1993 bà Hậu bán tiếp phần nhà bà đang ở cho bà Hà Thùy
Linh.
Năm
1993, ông Hưng khởi kiện yêu cầu chia thừa kế nhà đất của cha mẹ nêu trên theo
pháp luật. Việc giải quyết vụ án kéo dài từ năm 1993 đến 1996 và bị tạm đình chỉ xét
xử phúc thẩm năm 1997. Năm 2007, vụ án được thụ lý lại.
Khi
giải quyết vụ án, trước giai đoạn tố tụng tạm đình chỉ (1997), ông Hưng đã cung
cấp các đơn, giấy ủy quyền lập năm 1991, 1992, 1993, 1994 của ông Đường,
bà Cẩm, bà Thảo có nội dung giao cho ông Hưng trông coi quản lý tài sản thừa
kế phần của họ trong di sản thừa kế là nhà đất số 66 phố Đồng Xuân; sau đó ông
Hưng lại cung cấp các văn bản lập năm 1995 của ông Đường, bà Thảo và bà Cẩm có
nội dung cho hẳn ông Hưng phần thừa kế của mình trong tài sản tranh chấp.
Các văn bản đều có tem và con dấu của nước sở tại (ông Đường ở Anh, bà Cẩm ở
Pháp và bà Thảo ở Mỹ), nhưng chỉ là bản photocopy. Tuy nhiên, các đương sự đều
ghi rõ số nhà, địa chỉ của người viết văn bản. Trong quá trình thụ lý giải quyết
lại vụ án sau giai đoạn tạm đình chỉ, ông Hưng, bà Tiến, bà Hậu đều khai ông Đường,
bà Thảo đã chết khoảng năm 2002, ông Hưng xác định địa chỉ của bà Cẩm,
bà Thảo không thay đổi, còn ông đã liên lạc với con ông Đường nhưng không nhận
được hồi âm (bút lục 376, 377, 382). Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu ông Hưng phải
cung cấp chứng tử của ông Đường, bà Thảo; tên, địa chỉ của con ông Đường, bà Thảo.
Ông Hưng khai không cung cấp được và đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ để giải
quyết theo pháp luật (bút lục 390). Như vậy, trong hồ sơ đã có địa chỉ của
những người đã sống ở nước ngoài, còn việc yêu cầu ông Hưng cung cấp chứng tử của
ông Đường bà Thảo là không cần thiết, vì cả ba người ở trong nước đều
xác nhận hai người này đã chết. Lẽ ra, Tòa án cấp sơ thẩm phải thực hiện thủ tục
ủy thác tư pháp theo quy định, thu thập chứng cứ đối với ông Đường, bà Thảo để
làm rõ thời điểm những người này chết và nếu hai người chết này còn có người thừa
kế thì hỏi họ về quan điểm giải quyết vụ án. Tùy từng trường hợp căn cứ chứng cứ
mới để giải quyết vụ án theo quy định. Nếu không thu thập được chứng cứ gì
hơn thì vẫn phải giải quyết yêu cầu của ông Hưng để được hưởng thừa kế theo
pháp luật, phần thừa kế của ông Đường bà Thảo sẽ tạm giao cho những người đang
sống trong nước quản lý để sau này người thừa kế của họ có quyền hưởng theo
pháp luật, như vậy mới giải quyết dứt điểm vụ án. Đối với những người đang sống
tại phần nhà bà Tiến bán thì nghĩa vụ cung cấp tên tuổi của họ là của bà Tiến.
Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu ông Hưng cung cấp tên tuổi của những người này là
không đúng đối tượng. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng ông Hưng không cung cấp được
tên, địa chỉ của con ông Đường, bà Thảo, người mua nhà của bà Oanh để đình
chỉ giải quyết vụ án là không đúng. Tòa án cấp phúc thẩm lẽ ra phải hủy quyết định
sơ thẩm để giao giải quyết lại nhưng lại giữ nguyên quyết định sơ thẩm là không
đúng.
Ngoài
ra, theo các tài liệu có trong hồ sơ và lời khai của ông Hoàng Mạnh Khôi ngày
17-10-2007 (bút lục 373) và “Giấy bán nhà” ngày 31-10-1993 (bút lục 18), thì bà
Hậu bán phần nhà mà bà đang quản lý cho bà Hà Thùy Linh (chồng là ông Hoàng Mạnh
Khôi). Quyết định sơ thẩm và phúc thẩm lại ghi là bà Nguyễn Thị Thùy Linh là
không chính xác, cần điều chỉnh lại cho phù hợp.
Vì
các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;
QUYẾT
ĐỊNH
1.
Hủy Quyết định số 44/2010/QĐ-PT ngày 09-3-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao tại Hà Nội và hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số
54/2009/DS-ST ngày 30-9-2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về vụ án
tranh chấp thừa kế, giữa nguyên đơn là ông Vũ Đình Hưng với bị đơn là bà Vũ Thị
Tiến, bà Vũ Thị Hậu; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Vũ Đình Đường,
bà Vũ Thị Cẩm, bà Vũ Thị Thảo, bà Nguyễn Thị Kim Oanh, bà Hà Thùy
Linh.
2.
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết sơ thẩm lại vụ
án theo đúng quy định của pháp luật.
NỘI
DUNG ÁN LỆ
“Lẽ
ra, Tòa án cấp sơ thẩm phải thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp theo quy định,
thu thập chứng cứ đối với ông Đường, bà Thảo để làm rõ thời điểm những người
này chết và nếu hai người chết này còn có người thừa kế thì hỏi họ về quan điểm
giải quyết vụ án. Tùy từng trường hợp căn cứ chứng cứ mới để giải quyết vụ án
theo quy định. Nếu không thu thập được chứng cứ gì hơn thì vẫn phải giải quyết
yêu cầu của ông Hưng để được hưởng thừa kế theo pháp luật, phần thừa kế của ông
Đường bà Thảo sẽ tạm giao cho những người đang sống trong nước quản lý để sau
này người thừa kế của họ có quyền hưởng theo pháp luật, như vậy mới giải quyết
dứt điểm vụ án. Đối với những người đang sống tại phần nhà bà Tiến bán thì
nghĩa vụ cung cấp tên tuổi của họ là của bà Tiến. Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu
ông Hưng cung cấp tên tuổi của những người này là không đúng đối tượng. Tòa án
cấp sơ thẩm cho rằng ông Hưng không cung cấp được tên, địa chỉ của con ông Đường,
bà Thảo, người mua nhà của bà Oanh để đình chỉ giải quyết vụ án là không đúng.
Tòa án cấp phúc thẩm lẽ ra phải hủy quyết định sơ thẩm để giao giải quyết
lại nhưng lại giữ nguyên quyết định sơ thẩm là không đúng.”
Hãy đến với LUẬT NHẬT HÀ để được trải nghiệm những dịch vụ pháp lý tốt nhất. Mọi thắc mắc vui lòng liên hệ 0967164636 - 0945603196 để được tư vấn trực tiếp.
————————————————————————————
LUẬT NHẬT HÀ
Hotline: 0967164636 - 0945603196
Website: http://luatnhatha.com/
Email: luatnhatha@gmail.com